Đặt vé máy bay đi Côn Đảo tại Việt Hải sẽ giúp hành khách có hành trình bay tốt nhất và cơ hội trải nghiệm những dịch vụ tốt nhất khi quyết định lựa chọn máy bay làm phương tiện di chuyển của mình.
Vé máy bay đi Côn Đảo của Vietjet Air sẽ giúp hành khách có hành trình bay tốt nhất và cơ hội trải nghiệm những dịch vụ tốt nhất khi quyết định lựa chọn máy bay làm phương tiện di chuyển của mình. Bên cạnh đó, đội ngũ booker chuyên nghiệp của Việt Hải cũng sẽ giúp bạn săn tìm những chiếc vé máy bay giá rẻ, vé máy bay khuyến mãi cho hành trình khám phá thêm hấp dẫn và tiết kiệm.
Đặt vé máy bay đi Côn Đảo giá rẻ xin truy cập vào baysieure.vn . Vé máy bay Việt Hải hân hạnh được phục vụ bạn:
Côn Đảo là một quần đảo ở ngoài khơi bờ biển Nam Bộ (Việt Nam) và cũng là huyện trực thuộc tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Côn Đảo hay Côn Sơn cũng hay dùng cho tên của hòn đảo lớn nhất trong quần đảo này. Lịch sử Việt Nam trước thế kỷ 20 thường gọi đảo Côn Sơn là đảo Côn Lôn hoặc Côn Nôn. Tên gọi cũ trong các văn bản tiếng Anh và tiếng Pháp là Poulo Condor.
Năm 1977, Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam quyết định tên gọi chính thức là Côn Đảo. Côn Đảo cũng là đơn vị hành chính cấp huyện của tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Địa lí tự nhiên

Côn Đảo nằm cách Vũng Tàu 96,5 hải lí và cách cửa sông Hậu 45 hải lí, có cùng một kinh độ với Thành phố Hồ Chí Minh (106°36′ Đông) và cùng một vĩ độ với tỉnh Cà Mau (8°36′ Bắc). Quần đảo gồm mười sáu hòn đảo với tổng diện tích đất nổi là 76 km², trong đó đảo lớn nhất là đảo Côn Sơn. Địa hình đảo này là vùng đồi núi, ưu thế bởi các dãy đá granitchạy từ phía tây nam đến đông bắc, che chở cho các vùng vịnh của đảo cả về hai phía khỏi những luồng gió mạnh.[1] Điểm cao nhất của quần đảo là đỉnh núi Thánh Giá trên đảo Côn Sơn (576 m). Địa chất quần đảo có tính đa dạng cao, từ đá mácma Mesozoi xâm nhập axít đến mácma phun trào axít và phun trào trung tính cùng các trầm tích Đệ tứ.

Khí hậu Côn Đảo mang đặc điểm á xích đạo - hải dương nóng ẩm, chia thành hai mùa rõ rệt: mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 11 và mùa khô kéo dài từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm là 26,9 °C.[8] Tháng 5 oi bức, có lúc nhiệt độ lên đến 34 °C. Lượng mưa bình quân trong năm đạt 2.200 mm; mưa ít nhất vào tháng 1.[8] Quần đảo Côn Đảo nằm ở vùng giao nhau giữa luồng hải lưu ấm từ phía nam và luồng hải lưu lạnh từ phía bắc.Nhiệt độ nước biển từ 25,7 °C đến 29,2 °C.
Thị trấn Côn Đảo
Thị trấn Côn Đảo nằm trên một thung lũng hình bán nguyệt ở tọa độ 106°35′10″ kinh độ đông và 8°40′57″ vĩ độ bắc. Thung lũng có chiều dài từ 8 đến 10 km, chiều rộng từ 2 đến 3 km và có cao độ trung bình khoảng 3 m so với mặt nước biển. Một mặt trông ra vịnh Đông Nam trong khi ba mặt còn lại vây quanh là núi. Thị trấn Côn Đảo nằm ở khoảng giữa của sân bay Cỏ Ống và cảng Bến Đầm (khoảng cách ước chừng là 12 km). Thị trấn là nơi tập trung toàn bộ đời sống kinh tế, chính trị và xã hội của quần đảo.
Sinh thái

Vườn quốc gia Côn Đảo được thành lập từ năm 1993 trên cơ sở chuyển từ Khu rừng cấm Côn Đảo với diện tích 6.000 ha trên cạn và 14.000 ha vùng nước, bao trùm 14 hòn đảo.
Về thực vật, người ta thống kê được 882 loài thực vật rừng bậc cao thuộc 562 chi, 161 họ, trong đó có 371 loài thân gỗ, 30 loàiphong lan, 103 loài dây leo, 202 loài thảo mộc,.... Về động vật rừng, hiện đã biết 144 loài bao gồm 28 loài thú, 69 loài chim, 39 loàibò sát, Côn Đảo có loài thạch sùng Côn Đảo đặc hữu.
Vùng biển của vườn quốc gia sở hữu 1.383 loài sinh vật biển, trong đó có 127 loài rong biển, 11 loài cỏ biển, 157 loài thực vật phù du, 115 loài động vật phù du, 202 loài cá, 8 loài thú và bò sát biển,... Các rạn san hô nơi đây do 219 loài hợp thành; độ phủ trung bình là 42,6 %. Côn Đảo không chỉ là vùng có nhiều rùa biển nhất nước Việt Nam mà còn là nơi duy nhất ở Việt Nam còn tồn tại một quần thể bò biển có cuộc sống không tách rời các thảm cỏ biển.

Đền thờ bà Phi Yến, vợ thứ chúa Nguyễn Ánh
Tên Côn Đảo có nguồn gốc Mã Lai, bắt nguồn từ danh xưng "Pulau Kundur" (nghĩa là "hòn Bí"). Người châu Âu phiên âm là "Poulo Condor". Sách sử Việt Nam thì gọi là "đảo Côn Lôn". Riêng tên tiếng Khmer của đảo là "Koh Tralach”
Thuở xưa, lúc bị quân Tây Sơn tấn công thì Nguyễn Ánh từng trốn ra Côn Đảo để tính kế phục thù. Tương truyền khi biết Pigneau de Behaine (Bá Đa Lộc) khuyên Nguyễn Ánh cầu viện sự giúp đỡ từ Pháp thì một vị thứ phi đã lên tiếng phản đối. Nguyễn Ánh đày bà ra đảo Côn Lôn Nhỏ, từ đó đảo này có tên gọi là hòn Bà.
Về các địa danh hòn Trác và hòn Tài, có nguồn giải thích rằng chúng bắt nguồn từ tên của hai anh em sinh đôi là Đặng Phong Tài và Đặng Trác Vân. Cả hai đều là tuỳ tùng phò vua Hàm Nghi chống thực dân. Năm 1899, Pháp đày Đặng Phong Tài ra Côn Đảo - nơi ông kết duyên cùng người con gái tên Đào Minh Nguyệt. Về sau, người em Đặng Trác Vân cũng bị đày ra đây. Người chị dâu nảy sinh tình ý với em chồng, khiến Vân dần cảm thấy lo ngại và bèn quyết định bỏ sang hòn đảo khác. Khi Tài lần sang đảo tìm em thì Vân lại bỏ đi đảo khác.

Lịch sử
Trước thời Pháp thuộc
Côn Đảo nằm ở vị trí thuận lợi trên đường hàng hải nối liền Âu-Á nên sớm được người phương Tây biết đến.
• Năm 1294, đoàn thuyền 14 chiếc của nhà thám hiểm người Ý Marco Polo trên đường từ Trung Hoa về nước bị một cơn bão nhấn chìm mất 8 chiếc; số còn lại đã dạt vào trú tại Côn Đảo.[14]
• Giai đoạn thế kỷ 15-thế kỷ 16: có rất nhiều đoàn du hành của châu Âu ghé qua thăm Côn Đảo.
• Cuối thế kỷ 17 và đầu thế kỷ 18: các nhà tư bản Anh, Pháp đã bắt đầu để ý đến các nước phương Đông. Nhiều lần các công ty của Anh, Pháp cho người tới Côn Đảo điều tra, dò xét tình hình mọi mặt với dụng ý chiếm Côn Đảo.

• Năm 1702, tức năm thứ 12 đời Chúa Nguyễn Phúc Chu, đích thân giám đốc Công ty Đông Ấn của Anh chỉ huy quân đổ bộ lên Côn Đảo, xây dựng pháo đài và cột cờ.

• Tương truyền trong đợt thứ 3 bị Tây Sơn truy sát thì Nguyễn Ánh và thuộc hạ đã trốn ra Côn Lôn. Ông sống ẩn dật mấy tháng trời ở đây. Vì thế, hiện nay ở đảo Côn Sơn có một ngọn núi cao gọi là núi Chúa; ở làng An Hải có đền thờ thứ phi của Nguyễn Ánh là Hoàng Phi Yến và ở làng Cỏ Ống có Miếu Cậu thờ Hoàng tử Cải con của thứ phi Hoàng Phi Yến.
• Vào thời Gia Long, theo Đại Nam nhất thống chí thì Côn Đảo thuộc quyền quản hạt của đạo Cần Giờ, trấn Phiên An, tổng trấn Gia Định (Gia Định thành); đến năm Minh Mạng 20 (1839) thì Côn Đảo được chuyển sang thuộc tỉnh Vĩnh Long của Nam Kỳ Lục tỉnh.

Thời Pháp thuộc
• Ngày 1 tháng 9 năm 1858, Pháp tấn công Đà Nẵng, chiếm đóng bán đảo Sơn Trà và chuẩn bị đánh Huế.
• Tháng 4 năm 1861, Pháp đánh chiếm Định Tường. Chính trong thời gian này, Pháp khẩn cấp đặt vấn đề chiếm đóng Côn Đảo vì sợ Anh chiếm mất vị trí chiến lược quan trọng này.
• 10 giờ sáng ngày 28 tháng 11 năm 1861, thủy sư đô đốc Pháp là Bonard hạ lệnh cho tàu thông báo Norzagaray đến chiếm Côn Đảo kéo cờ Pháp.
• Trung úy Hải quân Pháp Lespes Sebastien Nicolas Joachim lập biên bản "Tuyên cáo chủ quyền" của Pháp tại Côn Đảo.
• Ngày 14 tháng 1 năm 1862, chiếc tàu chở hàng Nievre đưa một số nhân viên ra đảo. Những người này có nhiệm vụ tìm vị trí thuận lợi dựng tạm hải đăng Côn Đảo nhằm chống chế nếu có nước nào phản kháng hành động tuyên bố chủ quyền.
• Ngày 5 tháng 6 năm 1862, triều đình Huế kí Hòa ước Nhâm Tuất với Pháp. Khoản 3 của Hòa ước ghi rõ rằng nhà Nguyễn phải nhượng hoàn toàn chủ quyền Côn Lôn cho hoàng đế Pháp. Nguyễn (2012) cho rằng sở dĩ Pháp phải ép triều đình Huế làm như vậy là vì hành động chiếm Côn Lôn năm 1861 đã bị Anh phản đối, bởi phía Anh cho rằng Pháp chiếm đảo dựa theo một Hiệp ước không được thi hành (tức Hiệp ước Versailles năm 1783).

Thời Việt Nam Cộng hoà
• Ngày 22 tháng 10 năm 1956, Tổng thống Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh số 143-NV công bố danh sách các đơn vị hành chính Nam Việt, trong đó có tỉnh Côn Sơn.
• Ngày 24 tháng 4 năm 1965, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đổi tỉnh Côn Sơn thành Cơ sở Hành chính Côn Sơn trực thuộc Bộ Nội vụ. Chức "tỉnh trưởng" được đổi thành "đặc phái viên hành chính".
• Ngày 1 tháng 5 năm 1975, quân Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tiếp quản Côn Đảo.
Nhà tù Côn Đảo

Tượng người tù Côn Đảo
Ngày 1 tháng 2 năm 1862, Bonard ký quyết định thành lập nhà tù Côn Đảo, từ đó biến Côn Lôn thành nơi giam giữ những người tù chính trị Việt Nam với hệ thống chuồng cọp nổi tiếng. Dưới thời Pháp thuộc đã có câu rằng:
"Côn Lôn đi dễ khó về
Già đi bỏ xác, trai về nắm xương." Home